Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Monday 06-10-2025 12:38am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

CNHS. Lê Thị Mỹ Trinh – IVFMDTB

Kích thích buồng trứng có kiểm soát (Controlled Ovarian Hyperstimulation – COH) là nền tảng trong kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (Assisted Reproductive Technology – ART), với mục tiêu chính là thu nhận được nhiều noãn nhằm tạo ra số lượng phôi đủ để chuyển. Khi lĩnh vực ART phát triển, trọng tâm đã dần dịch chuyển từ số lượng phôi sang chất lượng phôi, đặc biệt là việc đạt được các phôi nguyên bội. Nhiều nghiên cứu đã báo cáo mối liên hệ giữa các phác đồ COH và tỷ lệ phôi nguyên bội (Euploidy Embryo Rates – EER), đặt ra thách thức đáng kể cho các chuyên gia sinh sản trong việc xác định chiến lược COH tối ưu cho bệnh nhân
Phác đồ kích thích buồng trứng có bổ sung progestin (Progesterone-Primed Ovarian Stimulation – PPOS) sử dụng đường uống progesterone ngoại sinh để ức chế đỉnh luteinizing hormone (LH) do estradiol kích thích, mang lại một lựa chọn thay thế khả thi cho các phác đồ COH truyền thống. Phác đồ này có nhiều ưu điểm đáng chú ý, bao gồm giảm nguy cơ hội chứng quá kích buồng trứng (OHSS), thuận tiện trong sử dụng và hiệu quả chi phí cao.
Trong một nghiên cứu hồi cứu quy mô lớn trên 14.981 người nhận noãn thủy tinh hóa từ 3.599 người cho noãn được kích thích bằng phác đồ PPOS và 4.998 người cho noãn được kích thích bằng phác đồ đối kháng GnRH, nhóm PPOS cho thấy kết quả lâm sàng tương đương nhóm đối kháng GnRH trong các chu kỳ noãn thủy tinh hóa từ người cho. Một phân tích gộp gồm 14 nghiên cứu với 4.182 người tham gia cũng chỉ ra rằng phác đồ PPOS cải thiện kết quả thụ tinh trong ống nghiệm (IVF)/tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) ở phụ nữ suy giảm dự trữ buồng trứng (Diminished Ovarian Reserve – DOR). Tuy nhiên, một số nghiên cứu lại cho kết quả trái ngược. Trong một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu bắt cặp theo điểm xu hướng trên 6.520 phụ nữ vô sinh từ 20–50 tuổi, phác đồ đối kháng GnRH cho thấy tỷ lệ sinh sống tích lũy (Cumulative Live Birth Rates – CLBRs) cao hơn đáng kể và thời gian để có con sống (Time to Live Birth – TTLB) ngắn hơn so với phác đồ PPOS ở nhóm bệnh nhân IVF không được chọn. Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng tiến cứu tại trung tâm IVF trực thuộc đại học, 318 người cho noãn được phân ngẫu nhiên 1:1 vào phác đồ PPOS hoặc đối kháng GnRH. Mặc dù cả hai nhóm tạo ra số noãn trưởng thành tương đương, phân tích hồi cứu trên người nhận cho thấy tỷ lệ thai tiến triển và tỷ lệ sinh sống thấp hơn ở nhóm nhận noãn từ người cho được kích thích bằng PPOS. Dẫu vậy, tác động chính xác của progesterone trong quá trình COH đối với chất lượng phôi và cơ chế nền tảng vẫn chưa được hiểu rõ hoàn toàn.
Trạng thái nguyên bội là yếu tố then chốt trong đánh giá chất lượng phôi và đã trở thành chỉ số quyết định quan trọng đối với kết quả ART. Nhờ xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (Preimplantation Genetic Testing – PGT) cho phép lựa chọn phôi nguyên bội, việc đánh giá tác động của phác đồ PPOS trong các chu kỳ PGT trở nên thiết thực. Tổng quan này nhằm mục đích khảo sát một cách toàn diện ảnh hưởng của phác đồ PPOS đối với cả EER và kết quả sinh sản trong các chu kỳ PGT, thông qua đó so sánh với các phác đồ COH khác. Thông qua các phân tích nhóm, nhóm nghiên cứu hướng đến việc xác định phác đồ phù hợp cho các nhóm bệnh nhân khác nhau, qua đó góp phần hoàn thiện và tối ưu hóa chiến lược ART.
2.1. Phương pháp
Cơ sở dữ liệu PubMed, Embase và Cochrane Central Register of Controlled Trials được tìm kiếm từ khi thành lập cho đến tháng 12 năm 2024. Các nghiên cứu được công bố bằng tiếng Anh trên các tạp chí bình duyệt, không giới hạn thiết kế nghiên cứu, với đối tượng tập trung vào ảnh hưởng của phác đồ PPOS đối với tỷ lệ phôi nguyên bội và kết quả sinh sản trong các chu kỳ PGT đều được đưa vào phân tích. Các bài xã luận, thư trao đổi, tổng quan, tóm tắt hội nghị và các nghiên cứu không liên quan đều bị loại trừ.
2.2. Lựa chọn nghiên cứu, trích xuất dữ liệu và phân tích tổng hợp
Hai nhà đánh giá độc lập đã tiến hành sàng lọc ban đầu và thẩm định toàn văn để xác định các nghiên cứu được đưa vào. Trường hợp có bất đồng ý kiến, việc xem xét được tiếp tục để đi đến thống nhất. Tổng quan này được thực hiện theo hướng dẫn PRISMA. Thang đánh giá Newcastle-Ottawa (Newcastle-Ottawa Scale – NOS) được sử dụng để đánh giá nguy cơ sai lệch của các nghiên cứu được đưa vào.
3. Kết quả
Trong quần thể chung, Giles (2022) thực hiện một nghiên cứu quan sát đa trung tâm với 4.961 chu kỳ bảo tồn sinh sản không ung thư và 12.461 chu kỳ PGT-A. Kết quả cho thấy, mặc dù số phôi sinh thiết ở nhóm PPOS ít hơn, nhưng tỷ lệ lệch bội, tỷ lệ làm tổ (IR) và tỷ lệ thai lâm sàng (CPR) tương đương với nhóm đối kháng GnRH. Đáng chú ý, nhóm PPOS có tỷ lệ sảy thai (MR) thấp hơn đáng kể. Một nghiên cứu hồi cứu đa trung tâm khác của Giles (2023) trên 1.652 chu kỳ bảo tồn sinh sản xã hội và 5.661 chu kỳ PGT-A cũng cho thấy nhóm PPOS có số noãn trưởng thành MII, phôi sinh thiết, tỷ lệ phôi nguyên bội (EER) và tỷ lệ thai tiến triển (OPR) tương tự, đồng thời có tỷ lệ sảy thai thấp hơn nhóm GnRH-A
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu của Wang (2023) với 608 chu kỳ PGT-A (146 PPOS, 160 GnRH-a, 302 GnRH-A, 267 FET) cho thấy tỷ lệ EER trên mỗi noãn MII và các kết cục sinh sản, bao gồm tỷ lệ sinh sống (LBR), không khác biệt giữa ba nhóm. Çakar (2024) phân tích 1.425 phôi nang PGT-A từ 383 chu kỳ và ghi nhận không có sự khác biệt đáng kể về EER, tỷ lệ β-hCG dương tính trên mỗi phôi chuyển giữa nhóm PPOS và GnRH-A. Các nghiên cứu khác cũng khẳng định hiệu quả ức chế rụng trứng của medroxyprogesterone acetate (MPA), mang lại kết quả sinh sản khả quan và lợi ích chi phí. Tuy nhiên, Huang (2023) báo cáo số lượng phôi nguyên bội trung bình và EER thấp hơn ở nhóm PPOS (457 chu kỳ PGT-A), trong khi bệnh nhân nhóm này có tuổi trung bình cao hơn. Tương tự, Pai (2023) nghiên cứu 128 chu kỳ PGT-A (≥38 tuổi) cho thấy nhóm PPOS có tỷ lệ phôi nang và phôi nguyên bội thấp hơn nhóm GnRH-A, song cỡ mẫu nhỏ. Nhìn chung, PPOS cho kết quả sinh sản không kém hơn GnRH-a và GnRH-A trong quần thể chưa phân loại.
3.1. Trong các nghiên cứu sử dụng quần thể bắt cặp hoặc tự kiểm soát
Kết quả nhìn chung cho thấy PPOS mang lại hiệu quả tương đương đối kháng GnRH. Yang (2020, 2022) so sánh 390 chu kỳ PGT-A PPOS với 390 chu kỳ GnRH-A (780 bệnh nhân), sau khi bắt cặp xu hướng cho thấy EER tương tự. La Marca (2020) nghiên cứu 192 bệnh nhân, 785 phôi nang, ghi nhận tỷ lệ phôi nguyên bội trên mỗi noãn tiêm và tổng phôi nguyên bội trên mỗi bệnh nhân tương đương. Pittana (2024) (138 PPOS-DuoStim với 138 đối chứng) cho EER tương đương (24,1% vs 25,4%). Các nghiên cứu khác (Abshkenova, Vidal) cũng cho kết quả tương tự, khẳng định PPOS có thể đạt kết quả sinh sản ngang bằng hoặc vượt GnRH-a/GnRH-A.
3.2 Trong các quần thể cụ thể
3.2.1 Ở nhóm bệnh nhân có tiên lượng tốt
Li (2021) ghi nhận sự suy giảm đáng kể cả ở tỷ lệ noãn bào thụ tinh bình thường (EER: 57,6% so với 76,0% và 67,3%) và tỷ lệ sinh sống (LBR: 45,5% so với 58,3% và 72,2%) ở những bệnh nhân trẻ (< 35 tuổi) sử dụng phác đồ PPOS, so với nhóm sử dụng GnRH-A và GnRH-a. Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu khác so sánh tỷ lệ sinh sống tích lũy (cumulative LBR) giữa PPOS và GnRH-A trong các chu kỳ PGT trên 865 bệnh nhân thuộc ba nhóm (đáp ứng buồng trứng bình thường – NOR, hội chứng buồng trứng đa nang – PCOS, và đáp ứng kém – POR). Kết quả cho thấy ở nhóm NOR và có xu hướng cả PCOS, PPOS có tỷ lệ sinh sống tích lũy thấp hơn hoặc có vẻ thấp hơn so với GnRH-A, trong khi ở nhóm POR thì tỷ lệ này tương đương.
3.2.2 Ở nhóm bệnh nhân có tiên lượng kém
Ở bệnh nhân có tiên lượng kém, đặc biệt là phụ nữ lớn tuổi hoặc nhóm đáp ứng kém, PPOS cho thấy những lợi thế tiềm năng. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng PPOS giúp cải thiện EER (29% so với 35%/phôi), giảm tỷ lệ khảm phôi, và duy trì các kết quả tương đương với GnRH-A về tỷ lệ thụ tinh, phôi nang, phát triển phôi, cũng như kết cục lâm sàng. Nghiên cứu trên phụ nữ AMA thực hiện PGT-A cho thấy cả PPOS và GnRH-A đều đạt được các chỉ số then chốt gần như tương đồng, bao gồm tỷ lệ phôi nguyên bội và tỷ lệ sinh sống tích lũy. Đáng chú ý, một số nghiên cứu còn ghi nhận kết quả phôi học và sinh sản từ PPOS-DuoStim tương đương, thậm chí không kém hơn, so với các phác đồ đối chứng.
Kết luận
Tóm lại, mặc dù phác đồ PPOS cho thấy tỷ lệ phôi làm tổ (EBR) và các kết cục sinh sản tương đương với các phác đồ kích thích buồng trứng thông thường (COH) trong quần thể chung, nhưng ở nhóm bệnh nhân tiên lượng kém, PPOS mang lại các kết quả sinh sản tương đương, thậm chí vượt trội. Ngược lại, cần thận trọng khi áp dụng ở những bệnh nhân có tiên lượng tốt. Thời điểm bắt đầu chu kỳ PPOS không ảnh hưởng đáng kể đến kết cục lâm sàng ở bệnh nhân với các mức đáp ứng buồng trứng khác nhau. Do đó, việc xây dựng kế hoạch điều trị cá thể hóa dựa trên đặc điểm và nhu cầu của từng bệnh nhân là hết sức cần thiết.

Tài liệu tham khảo: Mei Y, Wang Y, Kuang L, Lin Y and Wang F (2025) Impact of the PPOS protocol on euploidy embryo rates and reproductive outcomes in preimplantation genetic testing cycles: a systematic review. Front. Endocrinol. 16:1595232. doi: 10.3389/fendo.2025.1595232

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

New World Saigon Hotel, thứ bảy ngày 17 tháng 01 năm 2026

Năm 2020

Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP. Hồ Chí Minh (HOSREM) sẽ ...

Năm 2020

Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Ấn phẩm CẬP NHẬT KIẾN THỨC VỀ QUẢN LÝ SỨC KHỎE TUỔI MÃN ...

Y học sinh sản được phát ngày ngày 21 . 9 . 2025 và gởi đến ...

Cẩm nang Hội chứng buồng trứng đa nang được phát hành online ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK